3 nhóm thuốc phát minh cho thấy sự hứa hẹn trong tính an toàn, hiệu quả trên các bệnh nhân với các mức độ nghiêm trọng khác nhau của bệnh thận mãn tính (CKD) ở nghiên cứu pha 2 gần đây được trình bày trong hội nghị liên hiệp thận của châu âu.
8 tuần chữa trị với runcaciguat (Bayer), một hoạt chất cylase guanylate hòa tan, dẫn đến giảm hơn 40% albumin niệu khỏi đường cơ sở và so với nhóm sử dụng giả dược ở người đái tháo đường tuýt 2 bất chấp họ được điều trị nền với các tác nhân ức chế đồng vận chuyển sodium-glucose nhóm 2. Được thực hiện ngẫu nhiên trên 170 bệnh nhân với CKD và bất thường trong sự tăng của albumin-creatinine niệu (UACR).
1 nghiên cứu ngẫu nhiên trên 248 người với CKD và đái tháo đường tuýt 2 chữa trị với cotadutide (AstraZeneca), một chất chủ vận đôi đến các receptor của hai hormon kích thích dinh dưỡng là glucagon và peptide 1 giống glucagon (GLP-1) trong 26 tuần và cho thấy cotadutide giảm trung bình UACR từ 45-51%.
Một nghiên cứu thứ 3 đó là osocimab (Bayer), một tác nhân chống huyết khối, một kháng thể bất hoạt yếu tố Xia khỏi con đường nội sinh của sự đông máu ồ ạt. Trong 704 bệnh nhân được sử dụng ngẫu nhiên với bệnh thận giai đoạn cuối và được chạy thận nhân tạo. Tiêm osocimab từng tháng suốt 12 tháng đã cắt được nguy cơ đông máu khoảng 29-34% và giảm biến chứng của các bệnh chảy máu có nguyên do hoặc không.
Runcaciguat hồi phục tín hiệu cGMP hồi phục
Runcaciguat, một thuốc dùng hàng ngày, hoạt chất là một guanylate cyclase, với việc phục hồi chu trình GMP và bảo vệ chống lại stress oxi hóa.
Nghiên cứu pha 2 CONCORD ngẫu nhiên trên 170 người trưởng thành, những người ít nhất 45 tuổi với tỷ lệ lọc cầu thận (eGFR) là 25-60mL/min/1.73m2, UACR từ 30-3000mg/g, hình thành nên bệnh tim xơ vữa động mạch hoặc suy tim nhẹ đến trung bình. Và đái tháo đường tuýt 2, tăng huyết áp đối với runcaciguat hoặc giả dược. Bệnh nhân dùng runcaciguat đã trải qua 4 lần tăng liều theo từng tuần lên liều tối đa là 120mg và duy trì trong 4 tuần. Tiêu chí đánh giá là sự thay đổi về UACR so với ban đầu ở khoảng trống vào buổi sáng sau 3, 4, 8 tuần điều trị.
Hầu hết bệnh nhân đều ổn định, chấp nhận được liều cao của chất ức chế enzym chuyển hóa angiotensine (ACE) hoặc ARB.
Trong 63 bệnh nhân với tuýt 2 không được sử dụng chất ức chế SGLT2, 44 bệnh nhân được sử dụng runcaciguat và giảm khỏi đường trung bình đối với UACR đến 41% sau 3,4, 8 tuần so với sự tăng 7% ở 19 bệnh nhân sử dụng giả dược.
Runcacguat giảm UACR đến 40% khỏi đường cơ sở
Trong 58 bệnh nhân bị đái tháo đường tuýt 2 nhận sự điều trị của chất ức chế SGLT2, 45 bệnh sử dụng runcaciguat giảm trung bình 46% khỏi đường cơ sở so với sự tăng 4% của 13 bệnh nhân kiểm soát.
Giữa 47 bệnh nhân không có đái tháo đường thì 38 người nhận được thuốc giảm 45% khỏi đường cơ sở, tuy nhiên 11 bệnh nhân kiểm soát lại giảm đến 60%.
Người dịch: Nguyễn Sỹ Nguyên.
Người duyệt: Nguyễn Thị Thùy Trang.
Dịch từ trang: https://www.medscape.com/viewarticle/994421
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: