Dữ liệu từ thử nghiệm OASIS 4 của Novo Nordisk cho thấy rằng "semaglutide uống 25 mg có thể là một lựa chọn hiệu quả cho điều trị thừa cân và béo phì, đặc biệt là ở những bệnh nhân thích dùng đường uống," W. Timothy Garvey, MD, giáo sư Khoa Khoa học Dinh dưỡng tại Đại học Alabama tại Birmingham (UAB), cho biết vào ngày 6 tháng 11 tại cuộc họp Tuần lễ Béo phì 2024 của Hiệp hội Béo phì.
Trong một cuộc phỏng vấn với Medscape Medical News, Garvey, người cũng là nhà khoa học cấp cao tại Trung tâm Nghiên cứu Béo phì Dinh dưỡng UAB, nói thêm, "Có một nguyên tắc trong y học là bạn luôn sử dụng liều thấp nhất có hiệu quả cao nhất, và đối với semaglutide uống để điều trị béo phì, đó dường như là liều 25 miligam. Chúng ta cần các loại thuốc uống để cung cấp một lựa chọn cho bệnh nhân, điều này có thể dẫn đến sự tuân thủ lâu dài hơn với thuốc chống béo phì, đây là một vấn đề lớn. Ít hơn một nửa số người duy trì sự tuân thủ sau một năm."
Khi được yêu cầu bình luận, người điều hành phiên họp và nhà nghiên cứu béo phì Joseph A. Skelton, MD, giáo sư nhi khoa tại Trường Y khoa Đại học Wake Forest, Winston-Salem, North Carolina, cho biết OASIS 4 là "rất tốt, đặc biệt là khi chúng ta đều lo ngại về tỷ lệ cao của những người ngừng sử dụng các loại thuốc này sau một năm ... Tôi thích ý tưởng thử tìm những liều thấp hơn này và tăng thêm lựa chọn cho mọi người."
(Semaglutide uống được phê duyệt để điều trị tiểu đường type 2 [Rybelsus] được bán với liều 7 mg và 14 mg.)
Với Semaglutide Uống, Liều Thấp Có Thể Tốt Hơn
OASIS 4 là một thử nghiệm đa trung tâm, mù đôi, ngẫu nhiên, đối chứng với giả dược kéo dài 64 tuần, với tổng cộng 307 người tham gia bị thừa cân/béo phì được ngẫu nhiên hóa theo tỷ lệ 2:1 thành semaglutide uống 25 mg hoặc giả dược. Trong số đó, 167 người trong nhóm semaglutide 25 mg và 76 người trong nhóm giả dược đã hoàn thành thử nghiệm.
Đối với điểm cuối đồng chính là sự thay đổi trọng lượng cơ thể tại tuần 64 (bao gồm 52 tuần duy trì và 7 tuần theo dõi), có sự giảm 13,6% với semaglutide uống so với chỉ 2,2% với giả dược (P < .0001), dựa trên quan sát trong thử nghiệm bất kể sự tuân thủ. Đối với phân tích chỉ bao gồm giai đoạn điều trị, những giảm đó lần lượt là 16,6% và 2,7% (P < .0001).
Đối với điểm cuối đồng chính thứ hai, 79,2% semaglutide so với 31,1% giả dược giảm ít nhất 5% trọng lượng cơ thể, 63,0% so với 14,4% giảm ≥ 10%, 50,0% so với 5,6% giảm ≥ 15%, và 29,7% so với 3,3% giảm ≥ 20%. Tất cả đều là sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, ở P < .0001.
Trên thang điểm Chất lượng cuộc sống liên quan đến Trọng lượng-Phiên bản Thử nghiệm Lâm sàng, sự thay đổi từ điểm chuẩn là 16,2 với semaglutide uống so với 8,4 đối với giả dược (P = .0006) và tỷ lệ người tham gia đạt được sự gia tăng có ý nghĩa lâm sàng trong những điểm số đó (≥ 14,6 điểm) là 55,3% so với 34,8% (P = .0022).
Chu vi vòng eo cũng giảm đáng kể so với lúc ban đầu với semaglutide uống, giảm 12,2 cm so với 2,8 cm (P < .0001). Cả huyết áp tâm thu và tâm trương đều giảm nhiều hơn với semaglutide so với giả dược, nhưng không đáng kể. Tuy nhiên, chỉ số viêm C-reactive protein giảm từ mức ban đầu 46,4% so với chỉ 4,2% với giả dược, một sự khác biệt đáng kể (P < .0001).
A1c giảm 0,29 điểm phần trăm so với chỉ 0,06 với giả dược (P = .0012) và glucose huyết tương lúc đói giảm 6,6 mg/dL, trong khi tăng 0,4 mg/dL trong nhóm giả dược (P = .0012). Mức lipid cũng cải thiện nhiều hơn với semaglutide uống.
Các tác dụng phụ toàn bộ xảy ra ở 93,1% với semaglutide uống và 85,3% với giả dược, và các tác dụng phụ về đường tiêu hóa ở 74% và 42,2%, tương ứng. Các loại tác dụng phụ khác không khác biệt giữa các nhóm. Tỷ lệ gặp phải tác dụng phụ nghiêm trọng thấp hơn trong nhóm semaglutide (3,9% so với 8,8%), mặc dù các tác dụng phụ dẫn đến ngừng điều trị vĩnh viễn cao hơn một chút với semaglutide uống (6,9% so với 5,9%). Không có trường hợp tử vong nào.
Sự khác biệt về điều trị ước tính so với giả dược trong thay đổi trọng lượng cơ thể là -11,4% trong OASIS 4 (P < .0001) tương tự với -12,7% (P < .0001) được thấy với liều semaglutide uống 50 mg được nghiên cứu trong OASIS 1 và sự khác biệt -12,4% (P < .0001) với semaglutide tiêm dưới da 2,4 mg trong thử nghiệm STEP 1. “Tất cả đều có hiệu quả khá tương đương,” Garvey lưu ý.
Các hồ sơ tác dụng phụ, bao gồm cả tần suất của các tác dụng phụ về đường tiêu hóa, cũng tương tự nhau trong cả ba thử nghiệm. Tuy nhiên, Garvey cho biết thêm, “thời gian trung bình của buồn nôn ở những bệnh nhân bị buồn nôn ngắn hơn ở những bệnh nhân dùng liều 25 miligam, 13 ngày, trong khi thời gian trung bình của buồn nôn lớn hơn, 19 ngày, ở những người tham gia OASIS 1 dùng 50 miligam một ngày.”
Garvey đã tư vấn cho Boehringer Ingelheim, Carmot Therapeutics / Roche, Eli Lilly and Company, Fractyl Laboratories, Inogen, Lilly, Merck, Novo Nordisk và Zealand Pharma; có quyền sở hữu (cổ phiếu, quyền chọn cổ phiếu trong một công ty đại chúng) cho Bristol Myers Squibb, Isis, Lilly và Novartis; phục vụ với tư cách là nhà điều tra chính tại địa điểm cho Carmot Therapeutics / Roche, Eli Lilly and Company, Epitomee Medical, Lilly, Neurovalens, Novo Nordisk và Zealand Pharmaceuticals; và với tư cách là thành viên ủy ban giám sát dữ liệu cho Boehringer Ingelheim và Eli Lilly and Company. Skelton là tổng biên tập của tạp chí Childhood Obesity.
Người dịch: Phạm Thị Quỳnh Yên
Người duyệt: Nguyễn Thị Thùy Trang
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: