Tên Việt Nam: É, é trắng, húng trắng, trà tiên, tiến thực, hương thảo, húng lông, húng quế lông.
Tên khoa học: Ocimum africanum L. (Lour)
Tên đồng nghĩa: Ocimum basilicum var. pilosum
- Thân: Cây é là loài thảo mộc sống một năm, thường cao từ 0,5 đến 1 m. Thân cây có tiết diện vuông – một đặc trưng điển hình của họ Lamiaceae, mang màu lục nhạt và được phủ bởi lớp lông mềm, thưa. Ngay từ gốc, thân đã phân nhánh mạnh, tạo thành các bụi rậm. Đặc điểm lông tơ mảnh trên toàn cây là cơ sở cho tên gọi khoa học pilosum.
- Lá: Lá cây é mọc đối, sắp xếp vuông góc theo kiểu chữ thập. Phiến lá có dạng bầu dục, dài khoảng 5–6 cm và rộng 2–3 cm, với gốc lá tròn, đầu nhọn và mép có khía răng mịn. Cả hai mặt lá đều có lông mịn dọc theo các gân chính. Khi vò nhẹ, lá tỏa ra mùi thơm gần giống mùi sả – đặc điểm thường gặp ở các loài chứa tinh dầu thuộc chi Ocimum.
- Hoa: Hoa mọc thành cụm ở ngọn cành hoặc tại kẽ lá, thường nhỏ, có màu trắng hoặc trắng ngà. Hoa đối xứng hai bên, lưỡng tính, cấu tạo mẫu 5 – điển hình của họ Lamiaceae. Đài hoa và tràng hoa hợp thành ống, chia thành hai môi: môi trên có hai răng, môi dưới có ba răng. Bộ nhị gồm bốn nhị, thường hai dài hai ngắn hoặc bằng nhau, đính trên ống tràng, xen kẽ với các thùy của tràng hoa. Bầu trên, chia thành bốn ô rõ rệt; vòi nhụy mọc từ giữa bốn ô và gắn ở đáy bầu
- Quả và hạt: Quả của cây é thuộc loại quả bế nhỏ, hình bầu dục, nhẵn, có màu xám đen và kích thước tương tự hạt vừng. Mỗi quả chỉ chứa một hạt. Khi tiếp xúc với nước, hạt nhanh chóng hút nước và tạo thành lớp màng nhầy màu trắng bao quanh. Cơ chế này là kết quả của các tế bào biểu bì đặc biệt trên vỏ hạt – vốn chứa nhiều lớp mucilage (chất nhầy) trong thành tế bào. Khi ngấm nước, các tế bào này trương nở, vỡ ra và giải phóng mucilage hòa tan, hình thành lớp gel bao quanh hạt – một đặc tính sinh lý nổi bật giúp phân biệt hạt é với nhiều loài khác.
Cây é và các loài trong chi Ocimum phân bố rộng rãi ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, đặc biệt tại châu Phi, châu Á và Tây Ấn Độ Dương. Ở châu Phi, chúng có mặt tại Đông, Tây, Nam và Trung Phi, bao gồm các quốc gia như Kenya, Ethiopia, Angola, Guinea và Madagascar. Tại châu Á, cây phân bố từ vùng ôn đới (Trung Quốc, Đài Loan) đến vùng nhiệt đới như Ấn Độ, Sri Lanka, các nước Đông Dương (Việt Nam, Lào, Thái Lan...), bán đảo Mã Lai và nhiều đảo lớn như Borneo, Sumatra, Philippines, Papua New Guinea. Cây cũng được ghi nhận tại Queensland (Úc).
Theo thông tin từ Kew Science, O. africanum được ghi nhận có mặt tại Việt Nam. Ngoài ra, một nghiên cứu gần đây đã xác nhận sự hiện diện của loài này tại Ninh Thuận, Ninh Hòa và Phú Yên, nơi nó được sử dụng như một loại thảo mộc địa phương.
Tài liệu tham khảo:
1. Zengin, G., Aktumsek, A., Guler, G. O., Cakmak, Y. S., & Yildiztugay, E. (2014), “Antioxidant properties and phenolic composition of the extracts and essential oils of Tanacetum vulgare L. from Turkey: A comparative study”, Industrial Crops and Products, 53, 244–251.
2. Zhao, L., Zhou, Y., & Wu, D. (2017), “Effectiveness of β-caryophyllene in controlling mosquito larvae”, Scientific Reports, 7, 15579.
Người viết: Nguyễn Thị Thu
Người duyệt: Hà Hải Anh
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: