Tác dụng kháng tiểu cầu và bảo vệ tim của aspirin liều thấp có thể bị đối kháng khi dùng đồng thời một số thuốc chống viêm không steroid (NSAID). Ibuprofen và các thuốc khác như indomethacin, naproxen đã có bằng chứng cho thấy có tương tác xảy ra. Cơ chế này là do sự ức chế cạnh tranh cyclooxygenase tiểu cầu bởi một số NSAID, không giống như aspirin, chúng liên kết thuận nghịch tại vị trí hoạt động của enzyme và gây ra sự ức chế tạm thời. Các thử nghiệm liều đơn được công bố với ibuprofen 400 mg chỉ ra rằng ibuprofen can thiệp vào hoạt động kháng tiểu cầu của aspirin, xảy ra khi dùng ibuprofen trong vòng 8 giờ trước hoặc 30 phút sau khi dùng aspirin phóng thích tức thì. Một nghiên cứu cho thấy tác dụng kháng tiểu cầu của aspirin liều thấp dạng viên bao tan trong ruột giảm đi khi dùng ibuprofen 400 mg sau aspirin 2, 7 và 12 giờ. Ngược lại, một nghiên cứu đối chứng giả dược cho thấy không có sự giảm đáng kể về mặt lâm sàng đối với sự ức chế TXB2 khi dùng ibuprofen (400 mg ba lần một ngày) cùng với aspirin dạng nhai, giải phóng ngay lập tức (81 mg một lần một ngày) trong 10 ngày ở những người tình nguyện khỏe mạnh. Một nghiên cứu hồi cứu trên 7107 bệnh nhân có bệnh lý tim mạch xuất viện từ năm 1989 đến năm 1997 được kê đơn aspirin cho thấy những người cũng dùng ibuprofen có nguy cơ tử vong cao gấp đôi trong thời gian nghiên cứu so với những người chỉ dùng aspirin hoặc kết hợp với các NSAID hoặc acetaminophen khác. Điều đó có nghĩa là có thêm 12 ca tử vong (3 ca tử vong liên quan đến tim) mỗi năm trên 1000 bệnh nhân được điều trị.
Việc sử dụng kết hợp aspirin với NSAID nói chung có thể làm tăng khả năng gây độc tính nghiêm trọng trên đường tiêu hóa (GI), bao gồm viêm, chảy máu, loét và thủng. Về mặt dược động học, aspirin ở liều chống viêm hoặc cao hơn đã được chứng minh là làm giảm nồng độ trong huyết tương của nhiều NSAID, bao gồm cả ibuprofen. Một nghiên cứu đã báo cáo mức giảm trung bình 56% nồng độ ibuprofen khi dùng chung aspirin ở bảy bệnh nhân viêm khớp dạng thấp. Không quan sát thấy sự thay đổi về thời gian bán hủy của ibuprofen, điều này cho thấy tác động lên sự hấp thu hoặc liên kết với protein của ibuprofen nhiều hơn là sự bài tiết.
Bệnh nhân dùng aspirin liều thấp để bảo vệ tim mạch nên tránh sử dụng thường xuyên ibuprofen và có thể cả các NSAID khác. Việc sử dụng ibuprofen không thường xuyên có thể chấp nhận được, vì nguy cơ từ sự suy giảm tác dụng kháng tiểu cầu của aspirin liều thấp có thể sẽ ở mức tối thiểu do tác dụng kéo dài của aspirin trên tiểu cầu. Ở những bệnh nhân dùng aspirin giải phóng ngay (không phải dạng bao tan trong ruột), có thể sử dụng liều duy nhất ibuprofen 400 mg nhưng không nên dùng trong vòng 8 giờ trước hoặc 30 phút sau liều aspirin. Hiện tại không có khuyến nghị cụ thể nào về liều lượng và thời gian dùng ibuprofen liều duy nhất ở những bệnh nhân dùng aspirin liều thấp dạng tan trong ruột. Đối với những bệnh nhân cần điều trị NSAID thường xuyên với aspirin liều thấp đồng thời, diclofenac có thể là một lựa chọn thay thế khả thi. Trong nghiên cứu hồi cứu liên quan đến ibuprofen, liều diclofenac giải phóng chậm 75 mg hai lần mỗi ngày không ảnh hưởng đến hoạt tính kháng tiểu cầu của aspirin. Các lựa chọn thay thế không can thiệp khác để giảm đau bao gồm acetaminophen, celecoxib hoặc thuốc giảm đau gây mê. Trong mọi trường hợp, nên thận trọng khi kết hợp aspirin với NSAID do có khả năng gây độc cho đường tiêu hóa. Một số cơ quan có thẩm quyền coi việc sử dụng đồng thời aspirin với các NSAID khác, bao gồm cả ibuprofen, là chống chỉ định do có khả năng gây ra các phản ứng phụ. Ở Anh đã có hướng dẫn chống chỉ định sử dụng đồng thời aspirin ở liều giảm đau (tức là trên 75 mg mỗi ngày). Bệnh nhân nên được khuyên dùng thuốc cùng với thức ăn và báo cáo ngay các dấu hiệu và triệu chứng của loét và chảy máu đường tiêu hóa như đau bụng, đầy hơi, chóng mặt hoặc choáng váng đột ngột, buồn nôn, nôn, nôn ra máu, chán ăn và đại tiện phân đen.
Nguồn: Drugs.com
Người viết: ThS. Võ Thị Hải Phượng
Người duyệt: TS. Hà Hải Anh
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: