Những nghiên cứu đã cho thấy rằng khi một người 2 ngôn ngữ sử dụng một ngôn ngữ, ngôn ngữ còn lại được hoạt hóa cùng lúc. Khi chúng ta nghe một từ, chúng ta không nghe toàn bộ từ đó ngay lập tức, âm thanh đến theo một trình tự. trước khi từ đó kết thúc, hệ thống ngôn ngữ của bộ não đã bắt dầu đoán xem đó là từ gì. Nếu bạn nghe “can”, rất có thể bạn đã liên tưởng đến những từ như “ candy” hay “candle”, ít nhất là trong giai đoạn nhận thức sớm của ý thức. Với người 2 ngôn ngữ, sự đoán ước này không chỉ giới hạn trong một ngôn ngữ, âm thanh được nghe thấy sẽ hoạt hóa những từ mà không cần biết nó thuộc về ngôn ngữ nào. Một trong những bằng chứng thuyết phục nhất cho hiện tượng này, hay còn gọi là sự đồng hoạt hóa ngôn ngữ này, đến từ một nghiên cứu về sự chuyển động của mắt. Một người 2 ngôn ngữ Anh-Nga, được đề nghị nhặt lên một marker từ một tập hợp các vật sẽ nhìn vào stamp nhiều hơn người không biết tiếng Nga, bởi từ tiếng Nga cho stamp là marka, nghe giống như từ tiếng anh mà họ đã nghe thấy, marker, Trong những trường hợp như thế này, sự đồng hoạt hóa ngôn ngữ đã xảy ra vì người nghe có thể liên tưởng đến những từ trong cả 2 ngôn ngữ.
Phải giải quyết với sự cạnh tranh ngôn ngữ dai dẳng có thể dẫn đến một số khó khăn, tuy nhiên. Ví dụ, biết nhiều hơn một ngôn ngữ có thể khiến người nói gọi tên bức tranh chậm hơn, và có thể dẫn đến tình trạng “tip-of-the-tongue” khi bạn nghĩ đến một từ, nhưng không phải hoàn toàn. Kết quả là, sự sắp đặt ngôn ngữ thường xuyên như vậy tạo nên một nhu cầu quản lý xem một người có thể quản lý bao nhiêu ngôn ngữ trong một khoảng thời gian nhất định. Vì lý do này, người 2 ngôn ngữ thường biểu thị sự xuất sắc hơn trong những công việc đòi hỏi sự đối lập. Trong một bài test có tên là “Troop Task”, mọi người nhìn thấy một từ và được yêu cầu gọi tên màu chữ của từ đó. Khi màu sắc và từ đó phù hợp với nhau ( ví dụ: từ red được in màu red), mọi người gọi tên màu sắc nhanh hơn khi từ đó và mù sắc của từ không phù hợp với nhau (ví dụ từ red được in bởi màu xanh). Điều này xảy ra bởi ản thân từ đó và màu sắc đối lập nhau. Người 2 ngôn ngữ thường làm công việc này xuất sắc hơn, thể hiện khả năng bỏ qua những thông tin gây nhiễu và tập trung vào những mặt tương thích của vấn đề. Người 2 ngôn ngữ thường tốt hơn trong việc chuyển giao giữa 2 công việc cụ thể, ví dụ, khi người 2 ngôn ngữ phải chuyển từ việc sắp xếp mọi vật theo màu sang việc sắp xếp mọi vật theo hình dạng, họ làm nhanh hơn người một ngôn ngữ, thể hiện sự quản lý nhận thức tốt hơn khi phải làm một chiến thuật thay đổi nhanh chóng.
Cũng dường như là gốc rễ thần kinh của những thuận lợi của người 2 ngôn ngữ mở rộng tới những vùng của bộ não liên kết với quá trình cảm giác. Khi một người một ngôn ngữ và 2 ngôn ngữ nghe một âm thanh hội thoại đơn giản mà không có tiếng ồn ào gây nhiễu nào, họ thể hiện đáp ứng não bộ tương tự nhau. Nhưng khi nhà nghiên cứu tạo ra những âm thanh giống nhau cho cả 2 nhóm dựa trên nền tảng tiếng ồn, đáp ứng thần kinh của những người đa ngôn ngữ là lớn hơn, thể hiện sự mã hóa cường độ âm thanh cơ bản lớn hơn, một đặc điểm liên quan đến “pitch perception”
Những cải thiện như vậy trong quá trình nhận thức và cảm giác đã giúp một người 2 ngôn ngữ có thể xử lý thông tin trong môi trường sống, giúp giải thích tại sao những người trưởng thành 2 ngôn ngữ có thể học ngôn ngữ thứ 3 tốt hơn một người trưởng thành 1 ngôn ngữ học ngôn ngữ thứ 2. Ưu thế này xuất phát từ kĩ năng tập trung vào những thông tin về ngôn ngữ mới trong khi giảm bớt sự can thiệp của những ngôn ngữ mà họ đã biết.
Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng những kinh nghiệm trong 2 ngôn ngữ cũng giúp giữ cho bộ máy nhận thức sắc nhọn bằng việc tạo ra một bộ não thay thế để bù đắp cho những gì bị phá hủy cho quá trình lão hóa. Những người 2 ngôn ngữ lớn tuổi thường có một trí nhớ tốt hơn so với người một ngôn ngữ, điều mà có thể dẫn đến những lợi ích sức khỏe đáng kể. Trong một nghiên cứu với 200 bệnh nhân mắc bệnh Alzhemer, một chứng bệnh suy giảm bộ não, những bệnh nhân 2 ngôn ngữ thể hiện những dấu hiệu sớm của bệnh trung bình muộn hơn 5 năm so với những bệnh nhân 1 ngôn ngữ. Trong nghiên cứu tiếp theo, nhà nghiên cứu so sánh bộ não của những người 2 ngôn ngữ và 1 ngôn ngữ mà cùng có mức độ bệnh nghiêm trọng như nhau. Đáng ngạc nhiên, bộ não của người 2 ngôn ngữ thể hiện những dấu hiệu thể chất của bệnh hơn người đồng hành của họ, mặc dù hành vi và khả năng thể hiện ra bên ngoài của họ là như nhau.Nếu bộ não là một bộ máy, đa ngôn ngữ có thể giúp nó đi xa hơn với cùng một lượng năng lượng.
Hơn thế nữa, những ích lợi của việc đa ngôn ngữ dường như bắt đầu từ rất sớm.Trong một nghiên cứu, nhà nghiên cứu đã dạy một đứa trẻ 7 tháng tuổi lớn lên trong một ngôi nhà 2 ngôn ngữ và 1 ngôn ngữ rằng khi họ nghe thấy 1 âm thanh, một putpet xuất hiên ở một bên của màn hình. Khi nghiên cứu tiến hành đc 1 nửa, the putpet bắt đầu xuất hiện ở phía đối diện của màn hình. Để có thể nhận được phần thưởng, đứa trẻ sẽ phải điều chỉnh luật lệ mà chúng đã đc học, chỉ có những đứa trẻ 2 ngôn ngữ mới có khả năng học thành công luật lệ mới này. Điều này ngụ ý rằng dù là trẻ con, hay người lớn, việc tuân theo một môi trường đa ngôn ngữ cũng phổ biến những thuận lợi mà đi rất xa dưới ngôn ngữ.
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: