Nguồn: Theo HEALTHDAY NEWS MAGAZIN
THỨ TƯ, ngày 8 tháng Ba năm 2023 (HealthDay News) – Theo một nghiên cứu được công bố trong số ra ngày 21 tháng Hai trên Journal of the American Medical Association, đối với những người mang thai có nguy cơ cao bị tiền sản giật có tỷ lệ giữa tyrosine kinase-1 hòa tan bình thường giống fms với yếu tố tăng trưởng nhau thai (sFlt-1:PlGF), ngừng dùng aspirin trong khoảng thời gian từ 24 tuần đến 28 tuần tuổi thai khôngcó ý nghĩa so với việc tiếp tục dùng aspirin cho đến 36 tuần tuổi thai để ngăn ngừa tiền sản giật sinh non.
Tiến sĩ Manel Mendoza từ Universitat Autònoma de Barcelona ở Tây Ban Nha và các đồng nghiệp đã tiến hành một thử nghiệm về tính không thua kém, đa trung tâm, giai đoạn 3, chọn ngẫu nhiên ở chín bệnh viện phụ sản trên khắp Tây Ban Nha để xem xét việc ngừng aspirin ở tuần thai thứ 24 đến 28 có không thua kém so với tiếp tục dùng aspirin để ngăn ngừa tiền sản giật sinh non ở những người mang thai hay không. Người tham gia có nguy cơ cao bị tiền sản giật trong quá trình sàng lọc ở ba tháng đầu của thai kỳ và tỷ lệ sFlt-1:PlGF là từ 38 trở xuống ở tuần thứ 24 đến 28 của thai kỳ được chỉ định ngẫu nhiên vào nhóm ngừng aspirin (nhóm can thiệp) hoặc tiếp tục dùng aspirin cho đến tuần thứ 36 của thai kỳ (nhóm đối chứng; lần lượt là 473 và 463).
Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng tỷ lệ bị tiền sản giật sinh non lần lượt là 1,48 và 1,73% ở nhóm can thiệp và nhóm đối chứng (chênh lệch tuyệt đối, -0,25%; khoảng tin cậy 95% là từ -1,86 đến 1,36%), cho thấy sự không thay đổi.
“Điểm mạnh chính của nghiên cứu này là bằng chứng mới cho thấy rằng có thể không cần thiết phải tiếp tục dùng aspirin cho đến tuần thứ 36 của thai kỳ trong mọi trường hợp”, các tác giả viết. “Việc ngừng sử dụng sớm hơn cuối cùng có thể làm giảm nguy cơ bị các biến chứng chảy máu và các biến chứng của thai kỳ khi đủ tháng.”
NGUỒN: Mendoza M, Bonacina E, Garcia-Manau P, et al. Aspirin Discontinuation at 24 to 28 Weeks’ Gestation in Pregnancies at High Risk of Preterm Preeclampsia: A Randomized Clinical Trial. JAMA. 2023;329(7):542–550. doi:10.1001/jama.2023.0691
Người dịch: Nguyễn Đoàn Khánh Trang Người duyệt: Nguyễn Thị Thùy Trang
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: