Tiến hành:
*Chuẩn bị phức NLC (Nanostructured Lipid Carier) - MGF (Mangiferin)
Các công thức NLC - MGF được điều chế bằng phương pháp siêu âm. Với ba công thức được nghiên cứu, pha lipid chứa glyceryl monostearate, Gelucire 44/ 14, Miglyol 812 và MGF được đun nóng đến 70◦C để thu được dung dịch lipid đồng nhất. Pha nước chứa Tween 80 và Labrasol được đun nóng đến cùng nhiệt độ và sau đó phân tán chậm vào pha lipid bằng máy khuấy từ liên tục trong 0,5 giờ. Nhũ tương thu được được xử lý bằng máy siêu âm đầu dò ở 400 W trong 10 phút, sau đó làm nguội xuống 0◦C để kết tinh các hạt lipid. Cuối cùng, nhũ tương thu được được khử trùng bằng cách lọc qua màng 0,22 mcm và đông khô với mannitol (1%, w/ w) là tá dược tạo khung.
Để xác định công thức tối ưu, các chế phẩm khác nhau của các công thức NLC được đánh giá các tiêu chí: kích thước hạt, mức độ phân tán, điện thế zeta và hiệu suất tạo phức. Ở công thức NLC-3, có kích thước hạt trung bình là 51,39 ± 3,53nm, mức độ phân tán 0,25 ± 0,02, điện thế zeta -36,5 ± 1,5 mV, hiệu suất tạo phức là 88,10 ± 1,58% và DL là 1,68 ± 0,19%, được chọn là công thức thích hợp nhất cho chế phẩm nhãn khoa và do đó được chọn để tiếp tục nghiên cứu những tiêu chí cao hơn, nghiên cứu in vitro và in vivo. Kích thước hạt, mức độ phân tán và điện thế zeta đều ảnh hưởng đến sự phân bố thuốc dưới dạng nano. Kích thước hạt dưới 100nm với mức độ phân tán gần 0,25 được coi là tối ưu cho chế phẩm dùng cho mắt. Điện thế zeta tối thiểu là ± 20 mV là điện thế được mong muốn để ổn định về điện tích và không gian kết hợp. Các kỹ thuật khác nhau được sử dụng để bào chế công thức NLC. Siêu âm không ảnh hưởng đến một lượng lớn chất hoạt động bề mặt được sử dụng, cần phải tránh trong các công thức nhãn khoa. Do đó, nó được coi là một kỹ thuật thích hợp để bào chế công thức NLC dùng cho mắt. Các thông số sản xuất, như thời gian khuấy trộn, thời gian siêu âm và nhiệt độ pha loãng, đã được trình bày trong các nghiên cứu. Kết quả là, thời gian khuấy trộn 30 phút, nhiệt độ pha loãng ở 00C và thời gian siêu âm là 10 phút được coi là phù hợp cho sản xuất NLC.
Trong các nghiên cứu tiền công thức, một số sự phối hợp và nồng độ của các dạng lipit rắn, lipit lỏng và chất hoạt động bề mặt cũng được tiến hành để xác định khả năng tăng độ hòa tan của MGN, đồng thời phù hợp để sử dụng cho mắt. Trong số các lipit rắn, một hỗn hợp của hai loại lipit hóa học khác nhau, là glyceryl monostearate và Gelucire 44/ 14, đã được chọn, do có khả năng tăng độ hòa tan MGN đến một mức độ đáng kể. Là một lipid lỏng, Miglyol 812 giúp việc phân liều, đóng gói thuốc dễ dàng hơn và giảm sự kết tập của hạt, giúp tăng tính ổn định và độ phù hợp cao hơn để giải phóng bền vững. Hơn nữa, kết quả của nghiên cứu phù hợp với báo cáo của Mehnert và Mader cho thấy nồng độ lipid tối ưu cho phép độ phân tán ổn định là 5% - 10% (w/ w). Sự kết hợp của Tween 80 trong công thức NLC làm hạn chế sự phân bố kích thước hạt và tăng khả năng hấp thu chất hoạt động bề mặt vào bề mặt kỵ nước. Các nồng độ khác nhau của Tween 80 là 1%, 2%, 4% (w/ w) đã được thử nghiệm. Kết quả là 2% (w/ w) Tween 80 được chọn là công thức thích hợp nhất cho chế phẩm nhãn khoa và được sử dụng trong các nghiên cứu tiếp theo. Các kết quả tương tự đã được quan sát bởi Mehnert và Mader có ý nghĩa là kích thước hạt giảm khi nồng độ chất hoạt động bề mặt tăng, đạt mức tối ưu ở mức khoảng 2% - 3% (w/ w). Cuối cùng, cũng tính đến các hạn chế về sinh lý của mắt, cần phải thêm chất tăng cường hấp thu thích hợp để cải thiện mức độ thẩm thấu ở mắt. Labrasol, được sử dụng trong các chế phẩm ở mắt mà không gây tổn thương mô, đã được chọn trong các công thức NLC.
Trong các nghiên cứu tiền công thức, bao gồm các chất mannitol, glucose, lactose, và sucrose với các nồng độ 0,5%, 1%, 2%, 5% (w/ w) đã được nghiên cứu. Kết quả cho thấy manitol với nồng độ 1% (w/ w) đã được chọn làm tá dược tạo khung bởi vì hình dạng, màu sắc và khả năng phân tán trong nước của nó. Sau 3 tháng bảo quản, độ phân tán của MGN-NLC đã được tối ưu hóa và bột MGN-NLC đông khô vẫn không thay đổi ở 4oC. Không thấy có sự kết tụ, lắng hoặc nổi bọt trong phân tán MGN-NLC. Bột MGN-NLC đông khô dễ dàng được phân tán lại trong nước. Trong số các chất hoạt động bề mặt được chấp nhận cho ứng dụng nhãn khoa, Tween 80 được tìm thấy là chất nhũ hóa tối ưu, đóng vai trò chính trong việc tránh sự kết tụ hạt và ổn định công thức. Theo Urban-Morl và cộng sự, hạt nano có độ ổn định tốt với Gelucire. Kích thước hạt của MGN-NLC được tối ưu hóa và bột MGN-NLC đông khô được duy trì trong phạm vi nanomet, trong khi sự tăng kích thước hạt sau 3 tháng được cho là do sự kết hợp của các hạt nhỏ hơn để tạo thành các hạt lớn hơn. Chỉ số mức độ phân tán được mô tả gần như cùng cường độ với các giá trị thu được ngay sau khi sản xuất. Tuy nhiên, điện thế Zeta và hiệu quả phân liều giảm nhẹ, điều này có thể được quy cho việc thải trừ thuốc trong quá trình biến đổi lipid. Một phần của ma trận lipid chuyển từ dạng đa hình này sang dạng đa hình khác, làm giảm khoảng trống trong ma trận và khiến thuốc bị thải trừ.
Thuốc ngay lập tức được hấp thụ vào dung dịch nước và đạt giá trị nồng độ cực đại (Cmax) ở 0,22 giờ sau khi sử dụng MGN-SOL ở mắt. Sau đó, nồng độ thuốc giảm đáng kể trong những giờ sau. Tuy nhiên, sau khi nhỏ thuốc NLC-3, nồng độ thuốc cao hơn nhiều so với MGN-SOL. So với MGN - SOL, nồng độ thuốc được xác định tăng lên sau 5 giờ. Giá trị Cmax cho NLC-3 cao gấp 4,44 lần so với MGN - SOL (p <0,01). Ngoài ra, diện tích dưới đường cong (AUC) của NLC-3 tăng gấp 5,69 lần so với MGN-SOL (p <0,01). Thời gian đạt nồng độ cực đại (Tmax) và thời gian bán thải (T1/2) được kéo dài, trong khi đó tốc độ thải trừ (Ke) giảm. Có sự khác biệt về giá trị Tmax, T1/2 và Ke (p <0,05). Sinh khả dụng của mắt tăng lên bởi hệ thống phân phối NLC có thể được quy cho các lý do sau đây. Đầu tiên, MGN được tạo phức với hạt lipophilic tạo điều kiện cho việc vận chuyển qua đường giác mạc, dẫn đến nồng độ thuốc ở giác mạc được duy trì. Gelucire 44/ 14 là một loại lipid mới làm tăng cường hấp thu các thuốc hòa tan kém, góp phần cải thiện sinh khả dụng của thuốc. Labrasol là chất tăng cường hấp thu có thể làm tăng sự thẩm thấu giác mạc của thuốc đến một mức độ nào đó. Thứ hai, hạt nano sở hữu đặc tính kết dính sinh học do kích thước hạt cực nhỏ và diện tích bề mặt lớn. Do đó, tính chất hạt đảm bảo sự tiếp xúc với bề mặt niêm mạc biểu mô của mắt, ngăn ngừa nước mắt chảy ra, vì vậy thời gian duy trì tác dụng của thuốc kéo dài.
Các chỉ tiêu đánh giá:
- Kích thước tiểu phân: xác đinh giới hạn tiểu phân không nhìn thấy bằng mắt thường.
Phương pháp đánh giá: thiết bị đếm tiểu phân hoặc kính hiển vi
- Giới hạn cho phép về thể tích
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: